Chào mừng kỷ niệm 75 năm ngày CMT8 và Quốc khánh 2-9

Chào mừng kỷ niệm 75 năm ngày CMT8 và Quốc khánh 2-9

LTS: Trước năm 1945, đất nước ta bị giặc Nhật và giặc Pháp xâm lược đô hộ, nhân dân ta lâm vào cảnh lầm than (một cổ hai tròng), đói rét. Giặc Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay. Không có lương thực, nạn đói xảy ra làm trên 2 triệu người chết đói, đó là năm Ất Dậu 1945.

Ông Vũ Khiêu, lúc bấy giờ (nay là Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động) đã viết bài văn tế, đồng thời cũng là nêu lên tội ác của quân địch.

Nhân kỷ niệm 75 năm CMT8 thành công, chúng tôi xin giới thiệu cùng độc giả bài văn tế này để hiểu thêm bối cảnh trước CMT8.

 

TRUY ĐIỆU NHỮNG LƯƠNG DÂN CHẾT ĐÓI(1)

Vũ Khiêu

 

Một cơn gió bụi vừa tan(2)

Hai triệu sinh linh vừa mất(3)

Khí oan tối cả mây trời

Thây lạnh phơi đầy cỏ đất

 

Hỡi ôi:

Chung khí non sông

Cùng mang tai mắt

Vẫn giống thông minh

Vốn dòng cường quật

Cớ sao không Nam Bắc vẫy vùng

Để cam chịu cơ hàn(4) bứt rứt

Đáng lẻ nay bốn bể tranh hùng,

Chí những tưởng giật cờ cứu nước

Sống xông pha nơi bão đạn rừng gươm.

Mà ngán nhẽ một thời cơ nhỡ,

Lòng mải theo manh áo lưng cơm,

Chết thê thảm nơi hang cùng ngõ khuất.

 

Thương thay:

Hồn đã rất cao

Lòng vì quá chất

Những tưởng giỏ cơm bầu nước,

Đám lợi danh mây nổi bèo trôi.

Nào ngờ tháng lại ngày qua

Trường tranh đấu mưa dày gió rựt.

Việc bốn mùa nào xây công đắp đê,

Nào làm đường xẻ đập,

Huyết hãn kia bồi đắp non sông.

Thân bảy thước khi dầm sương dãi nắng,

Khi gội gió tắm mưa,

Xương thịt ấy đâu phải là đá sắt.

Đã mỏi xác cân đay nộp lạc,

Thóc được ít lại liên đoàn(5) lấy hết,

Ách tham tàn càng gánh càng đau.

Từng mòn chân chạy thuế lo sưu,

Tiền đã còn hương lý xoay quanh,

Dây cơ khổ mỗi ngày mỗi thắt.

 

Cho đến khi

Hạt tấm không còn,

Đồng trinh cũng mất

Những tưởng túng qua

Ngờ đâu đói thật

Trông vợ con lòng đã xót lòng

Nhìn hương xóm mặt càng rõ mặt.

Trước còn định dây khoai rễ má,

Lần hồi sao bữa đến qua loa.

Sau đành đem tháo bếp dỡ nhà,

Xoay sở mãi ngày càng heo hắt.

Đầu bù tóc rối,

Dắt dìu nhau nơi quan đổ lều nghiêng.

Áo cói quần rơm,

Chua xót mấy khi mưa dầm nắng gắt.

Ngẫm thuở trước, cảnh nghèo cũng lắm,

Chữ cương thường còn giữ dạ đinh ninh

Mà ngày nay nỗi khổ không cùng,

Dây thân ái cũng nghiến răng dứt đứt.

Mẫu tử tình thâm,

Ôi một mái tơ xanh nào đã tội,

Bỏ u ơ cuối chợ đầu đường.

Phu thê nghĩa nặng,

Hẹn trăm năm đầu bạc cũng sai lời,

Sớm đau đớn người còn kẻ mất.

Biết đi đâu? Bốn phương trời mờ mịt,

Trời lờ như điếc, đất như câm.

Hỏi cùng ai? Những bóng bơ vơ,

Ruột tát bựa vào, gan tựa cắt.

Lang thang chí phách ở hồn đi!

Thảm thiết nhẽ ngày tàn bóng tắt!

Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu

Có người đến bên cây ngã vật

Có khi ngõ vắng gieo mình

Có lúc vườn sau thở hắt

Có những quán hàng bao xác lạnh,

Bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng.

Có nhiều nơi: một nắm xương khô,

Từng nắng giãi mưa dầu không kẻ nhặt.

Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn.

Từng đống trên xe chồng chồng, chất chất.

Ôi nói ra những toát mồ hôi

Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt!

 

Hỡi những bóng điêu linh

Hỡi những hồn oan uất

Mà đường khuya quãng vắng lang thang

Trên ngọn cỏ đầu cây lẩn quất!

Ta đã trông những hình rã rượi,

Mẹ khóc con trong sương lạnh trăng mờ.

Ta đã nghe những tiếng thảm thê,

Già bảo trẻ dưới mưa lay gió lắt.

Nghỉ thương kẻ còn đau khổ mãi,

Nỗi oan buồn máu biếc không tan(6)

Mà chưa biết ai trả thù xong,

Lửa oán giận gan vàng chắt tắt.

Oán đã đành những kẻ xâm bang;

Giết người, cướp của, thỏa dạ tham tàn

Giận biết mấy cho quân đồng loại:

Tham nhũng đầu cơ riêng mình khoái dật.

Ngán nhẻ lầu son gác tía,

Chén phong lưu những máu chan hòa.

Gớm cho mũ bạc đai vàng,

Đài vinh hiển bằng xương cao ngất!

 

Nay gặp buổi:

Súng dân quân dậy sóng ầm ầm

Cờ khởi nghĩa ngất trời phới phất

Đèn quang minh đương đội soi cao

Gươm chính khí đến ngày tuốt phắt.

Bao phường cướp nước không tha

Những lũ buôn nòi sẽ bắt

Hận thù kia rồi trả phân minh,

Oan thác nọ sẽ đền chu tất.

Cho ai chín suối ngậm cười.

Để khách năm châu tỏ mặt.

Chỉ đáng tiếc sống xưa chửa kịp đem thân nọ đền bù đất nước,

Phải ngậm ngùi cùng hoa cỏ ủ ê.

Thì ngày nay chết phải làm sao để hồn kia chói lọi trời mây.

Mà bảo vệ lấy giang sơn vững chặt.

Giúp đồng bào cho trăm triệu sống an vui

Dựng độc lập để nghìn thu cờ vững ngất.

 

 

(1): Mùa xuân 1945, do phát xít Nhật bắt dân ta nhổ lúa để trồng đay, sau đó chúng tổ chức thu mua cạn thóc lúa của ta nên nhân dân ta chết đói tới 2 triệu người. Tác giả chứng kiến cảnh đau khổ vô bờ bến đó, nên xúc động viết bài văn tế này.

(2): Gió bụi, chữ Hán là “phong trần” chỉ những biến cố lớn lao làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của con người. Ở đây tác giả muốn chỉ cuộc đánh chiếm Đông Dương của phát xít Nhật và nạn đói khủng khiếp do chúng gây nên hồi giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX.

(3): Nạn đói do phát xít Nhật gây ra năm 1945 đã làm cho hơn 2 triệu người dân chết đói.

(4): Cơ là đói kém, hàn là lạnh buốt. Cảnh cơ hàn là cảnh đói rét. ở đây tác giả muốn nói tới cảnh chết đói năm 1945.

(5): Liên đoàn: tổ chức do bọn Nhật lập ra hồi những năm 1944 – 1945 chuyên thu mua thóc của dân ta.

(6): Máu biếc (Bích huyết): Trương Hoàng đời Chu bị chết oan ở nước Thục, ba năm đào mả lên, thấy máu không tiêu mà lại hóa sắt biếc.