//custa.cantho.gov.vn/files/images/tin-tuc/67-nam-ky-niem-chien-thang-Dien-Bien-Phu-2.jpg

Sự ra đời của bài thơ

 SỰ RA ĐỜI CỦA BÀI THƠ “HOAN HÔ CHIẾN SĨ ĐIỆN BIÊN”

 

Tin về nửa đêm
Hoả tốc hoả tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn đỏ lửa...

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!

Kháng chiến ba nghìn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hoà vui chung.

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện.

Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống!
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng:
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.

Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta!
Chúng bay chỉ một đường ra:
Một là tử địa, hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!
Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy
Trên đầu bay, thác lửa hờn căm!
Trông: Bốn mặt, luỹ hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông.

Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành.
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít
Anh sẽ nói: “Thực dân, phát-xít
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hoà bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh.
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa.
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!”
       Tháng 5-1954 (tập Việt Bắc, NXB Văn học, 1962)

 

      Bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu có thể xem là bài thơ hay nhất trong hàng trăm bài viết về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Bài thơ là khúc tráng ca khải hoàn của dân tộc kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Có người còn gọi đây là bài “Đại cáo bình Tây” của thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ có 4 khổ dài hơn 100 câu, từ khi ra đời đến nay nhưng ít người biết khi sáng tác bài thơ này Tố Hữu chưa từng lên Điện Biên mà chỉ thông qua tin tức từ chiến trường gửi về và qua sự kể lại của bạn bè, đồng chí về vùng đất và con người Điện Biên Phủ.

      Nhà thơ Trần Đăng Khoa - nay là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, trong tác phẩm “Chân dung và đối thoại” (1999), cho biết:

     Về tên bài thơ, Tố Hữu nói: “Lúc đầu mình lấy tên là “Điện Biên Phủ”. Nhưng sau thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một địa danh. Mình đổi thành “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc lại bài thơ, thấy câu “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”. Thôi, lấy luôn như thế cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài”.

      Từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch, 56 ngày đêm, Tố Hữu chưa có lên Điện Biên lần nào. Ông bảo: “Nào mình có biết Điện Biên ở đâu mà đi. Đi sao được. Mà ai cho đi Hồng Cúm, Him Lam,...”, ông phải đi hỏi. “Mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang máng thế thôi. Và rồi, những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét vào. Nó mới thành: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam – Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. Đấy, đơn giản là thế”.
       Hồi ấy, Tố Hữu là Trưởng ban Tuyên truyền, ông bảo “Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân ủy Trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên truyền.”. Ông nói: “Lúc ấy khoảng 5 giờ rưỡi hay 6 giờ chiều ngày 7/5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện “Hỏa tốc, hỏa tốc/ Ngựa bay lên dốc” ấy là có thật. Đấy là con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi một con ngựa với chú liên lạc chứ làm gì có “Đuốc chạy sáng rừng”, với “Làng bản đỏ đèn lửa”. Khi viết là mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù. Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói, chắc họ đang nấu cơm hay nướng sắn gì đó. Thế mà mình viết: “Đuốc chạy sáng rừng – Loa kêu từng cửa”. Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai. Dân ở xa, ở gần dân e bị lộ. Nguyên tắc bí mật tuyệt đối. Cơ quan Trung ương ở trong rừng, ở giữa lau tre. Mình ở nhà đất. Anh Trường Chinh cũng ở nhà đất. Chỉ có Bác ở nhà sàn. Ông cụ có đặc có đặc tính là thích ở nhà sàn và ở bên suối. Ông cụ vốn là người yêu sơn thủy hữu tình. Cơ quan Trung ương cũng đóng dọc bên suối, lán chìm trong lá cây. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù mà. Bí mật là nguyên tắc. Vậy thì loa với ai. Thế mà vẫn “Loa kêu từng cửa. Làng là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng tha cho”.
     Tố Hữu kể: “Bài Điện Biên được viết nhanh lắm. Sau chiến thắng tôi lên Bác ngay, xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: “Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh là tất nhiên sẽ thắng. Quân đội ta là quân đội quyết chiến quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi. Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết thúc đâu. Kẻ thù của ta không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu. Điều đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy trong ngày chiến thắng Điện Biên ... Cũng trong buổi gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không ngủ được, cứ vẩn võ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thì đèo Pha Đin, đèo Lũng lô, cũng chẳng thể hình dung được.
     Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những gì mình nghe được về Điện Biên mình cho vào thơ hết, cho nó có vần, có điệu, vì nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho nó nổ tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất” (Chân dung và đối thoại, tr 19 -20). Ngay cả câu thơ “Tiếng reo núi vọng sông rền...”, Tố Hữu cũng cho biết “mình cũng phịa đấy”. Hồi đó đang phải bí mật, có ai dám hò đâu. Nhưng phải viết thế, phải tạo không khí như thế mới có cớ mà Hoan hô chứ. Mình Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Hoan hô ông Giáp. Lúc ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp oanh liệt lắm. Người ra trận mà. Một ông Tổng Tư lệnh mặt trận...”.

       Khi được hỏi, bài thơ này khi viết xong Bác Hồ có đọc không, Tố Hữu nói: “Có chứ”. Thế Ông Cụ nói sao. Tố Hữu: “Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao giờ Ông Cụ khen thơ tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa bao giờ khen tôi cả” (Sđd, tr 21).
     Cũng giống như nhà thơ Phùng Quán viết “Vượt Côn Đảo” (khi viết tác phẩm này, ông chưa hề đặt chân đến Côn Đảo, chỉ biết Côn Đảo qua lời kể của một số tù chính trị vượt Côn Đảo”. Mặc dù những “Chiến sĩ Điện Biên” – những con người thực, những sự việc thực của việc chiến đấu 56 ngày đêm đó Tố Hữu chỉ hình dung qua lời kể, nhưng nó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm hồn Tố Hữu, làm nảy lên những câu thơ như giàu sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về thực tế mà nhà thơ đã thâu lượm được từ trước hoặc qua lời kể. Nhà thơ đã có sự thông cảm mãnh liệt đối với sự hy sinh, sức chịu đựng gian khổ của bộ đội, dân công dốc sức ra mặt trận đánh đuổi quân thù. Chính tình cảm của nhà thơ đã làm nên những câu thơ rung lên những nhạc điệu, những ý thơ lãng mạn, khiến người đọc vô cùng xúc động.

 

                                                                                    LÊ XUÂN