Phụ nữ Việt Nam qua 90 năm trưởng thành

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2020)

PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA 90 NĂM TRƯỞNG THÀNH


 

 

Trong văn kiện thành lập Đảng tháng 2-1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một chủ trương lớn về phương diện xã hội là “thực hiện nam nữ bình quyền”[1]. Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cũng nêu rõ: “Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để... thực hiện nam nữ bình quyền”[2].

Từ năm 1930-1936, dưới sự lãnh đạo của Đảng, người phụ nữ đã được giác ngộ cách mạng và các tổ chức Phụ nữ Giải phóng dần hình thành. Từ năm 1936-1938, căn cứ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (8-1937) về công tác vận động phụ nữ, tổ chức Phụ nữ Giải phóng được đổi thành Hội phụ nữ Dân chủ. Hội đã tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình đẳng và tổ chức các hoạt động gắn với tính chất ngành nghề của phụ nữ để đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi quyền lợi cho phụ nữ. Từ 1939-1941, trong hoàn cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Hội chủ trương đổi tên thành Hội phụ nữ Phản đế. Từ 1941-1945, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ cứu quốc đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Phó tổng tư lệnh quân Giải phóng miền Nam là cô Nguyễn Thị Định, cả thế giới chỉ có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam, cho cả dân tộc ta”. Ảnh minh họa.

 

Từ việc nhận ra vai trò của người phụ nữ trong công cuộc giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận ra rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì cần phải giải phóng hoàn toàn người phụ nữ. Người nhận định: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phát huy truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, hàng ngàn, hàng vạn các mẹ, các chị cầm vũ khí trực tiếp tham gia giết giặc lập công. Ngoài những nữ chiến sĩ trong hàng ngũ các đơn vị chính quy, các binh chủng và các đơn vị kỹ thuật, còn có đông đảo phụ nữ tham gia chiến đấu trong phong trào dân quân, du kích, thanh niên xung phong ở khắp nơi. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) cả nước ta có đến 980.000 nữ du kích. Trong đó có 12 nữ du kích được tặng danh hiệu Anh hùng như: Hồ Thị Bi, Nguyễn Thị Chiên, Mạc Thị Bưởi, Võ Thị Sáu... Từ năm 1950 đến 1954, nữ dân công vùng tự do đã đóng góp 9.578.000 ngày công vận chuyển lương thực, thực phẩm, súng đạn cho 18 chiến dịch, riêng chiến dịch Điện Biên Phủ là 2.381.000 ngày công.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975), phụ nữ miền Nam đã lập được nhiều kỳ tích chói lọi. Ra đời từ phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre (1960), “Đội quân tóc dài”- một “Binh chủng đặc biệt” của nữ giới đã phát triển lan rộng khắp miền Nam, đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ. Các nữ anh hùng, nữ dũng sĩ diệt Mỹ miền Nam đã đánh giặc bằng đủ các loại vũ khí từ thô sơ đến hiện đại, đã lập nhiều chiến công chói lọi. Tiêu biểu là các nữ anh hùng Nguyễn Thị Út, Tạ Thị Kiều, Kan Lịch; các nữ liệt sĩ Tô Thị Huỳnh, Lê Thị Hồng Gấm, Trần Thị Tâm; tiểu đội 11 cô gái Sông Hương đã dũng cảm chiến đấu, đánh lui một tiểu đoàn địch trong chiến dịch Mậu thân 1968... Ở miền Bắc, phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ đã trở thành một trong những biểu tượng cao nhất của phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong những năm chống Mỹ. Thực hiện khẩu hiệu “Tay búa, tay súng”, “Tay cày, tay súng”, phụ nữ miền Bắc đã tham gia đông đảo vào các lực lượng dân quân và tự vệ chiến đấu ở khắp mọi nơi, từ miền xuôi đến miền núi. Có 20 đơn vị nữ dân quân tự vệ đã độc lập tác chiến bắn rơi 28 máy bay Mỹ. Ba đơn vị nữ được tặng danh hiệu đơn vị anh hùng là trung đội nữ dân quân xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hoá; tiểu đội nữ dân quân xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh; đại đội nữ pháo binh xã Ngư Thuỷ huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Cũng năm 1965, lực lượng “Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước” thành lập ở miền Bắc với nhiệm vụ đảm bảo giao thông trên các tuyến đường huyết mạch. Hơn 6 vạn nữ thanh niên đã tham gia mở đường, san lấp hố bom tại các trọng điểm đánh phá ác liệt như cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), phà Bến Thuỷ (Nghệ An), ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)... Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen tặng: “Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang, chống Mỹ cứu nước”. Người cũng khen tặng phụ nữ miền Nam tám chữ vàng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”.

Ngày 9-3-1961, khi nói chuyện với các đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng. Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”[3].

Sau đó, về thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ tỉnh Thái Bình năm 1966 – quê hương của chị Hai Năm tấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau. Lênin dạy chúng ta: phụ nữ là một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng cả. Phụ nữ thì phải tự mình phấn đấu giữ gìn quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông phải kính trọng phụ nữ”[4].

Đánh giá về kết quả sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng và Chính phủ khẳng định: “Trong hàng ngũ vẻ vang những anh hùng quân đội, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua và lao động tiên tiến đều có phụ nữ. Phụ nữ tham gia ngày càng đông và càng đắc lực trong các ngành kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Thế là dưới chế độ tốt đẹp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phụ nữ đã thật sự làm chủ nước nhà”[5]. Đặt niềm tin vào vai trò chủ động vươn lên của người phụ nữ trong học tập, lao động và sáng tạo, Người tin tưởng rằng: “Dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ mà người đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và nghị lực như việc lái các con tàu vũ trụ Phương Đông”[6].

Tháng 5-1968, trong đoạn viết bổ sung vào Di chúc năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên nhắc tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”[7].

Học viện Phụ nữ Việt Nam tham gia đoàn diễu hành nhân kỉ niệm 65 năm ngày Quốc khánh 2-9 năm 2010. Ảnh: http://hvpnvn.edu.vn.

 

 

Trong Báo báo Chính trị Đại hội đại biểu lần thứ XII (2016), Đảng đã nêu phương hướng: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ”[8]. Tuy nhiên, trong lúc cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, Đảng và Chính phủ cần phải xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với cán bộ nữ. Bên cạnh đó, cần tạo mọi điều kiện cho người phụ nữ học văn hóa, khoa học - kỹ thuật.

 

        NGUYỄN VĂN TOÀN

 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.1.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb. Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,  tr.8-10.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009,  tr. 296.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009,  tr.195.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.256.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 97.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,  tr. 617.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII”, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.163.