Học tập cách ứng xử văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Bác (1969 – 2019)

 

HỌC TẬP CÁCH ỨNG XỬ VĂN HÓA CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

      Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem là tài sản vô giá, là  một trong năm “bảo vật”  quốc gia của Bác Hồ, là lời nhắc nhở mọi cán bộ đảng viên và toàn thể mọi người hãy sống và làm việc làm sao để góp phần giữ vững Độc lập dân tộc, đoàn kết toàn dân, chống mọi suy thoái về đạo đức, lối sống, làm cho dân giàu nước mạnh. Một trong những điều mà chúng ta cần “làm theo” là cách ứng xử có văn hóa trong giao tiếp nói riêng và cuộc sống nói chung của Bác.

       Cảm hoá, khoan dung, độ lượng là một trong những đặc điểm trong văn hoá ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người - được coi là nét chủ đạo trong triết lý nhân văn của  Bác. Bởi vậy đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, văn hoá ứng xử của Bác vừa ân cần, niềm nở, vừa thân ái gần gũi, khi cần thì nhắc nhở nhẹ nhàng hoặc phê bình kịp thời, nghiêm khắc mà vẫn khoan dung, độ lượng, lay động cảm hoá lòng người cao độ.

       Văn hóa ứng xử của Bác thể hiện ở sự gần gũi tế nhị với độ sâu sắc lịch lãm, cái dung dị đời thường với tầm cao của tư duy bác học; sự hoà quyện trong phương sách ứng xử của Bác đã đạt tới nghệ thuật đặc trưng riêng của tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy điều không đổi ứng phó với vạn điều thay đổi để thực hiện điều không đổi), và điều này ít pha lẫn với mọi người.

       Chính nhờ sự giản dị, tế nhị trong phong cách ứng xử, Bác đã làm cho tất cả mọi người, dù địa vị, thành phần xuất thân, mục đích hoàn cảnh gặp gỡ có khác nhau, nhưng sau khi tiếp xúc với Bác, đều để lại ấn tượng sâu sắc bằng sự nể trọng, chia sẻ, tôn vinh bởi sức cảm hoá cuốn hút từ chính đạo đức, nhân cách, phép ứng xử văn hoá của Người.

     Cách mạng Tháng Tám thành công, trước nạn đói - một trong 3 thứ giặc (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm) đang hoành hành, Bác vừa kêu gọi đồng bào, cán bộ tăng gia sản xuất, vừa phát động phong trào nhường cơm sẻ áo, 10 ngày nhịn ăn một bữa để góp gạo cứu giúp người đói và chính Bác đã gương mẫu nghiêm túc thực hiện. Đối với thiếu nhi, mỗi lần đến thăm Bác thường chia kẹo, tặng sữa; đối với các cụ cao tuổi, Bác thường biếu lụa để khích lệ động viên họ.

      Hưởng ứng phong trào đóng góp vào quỹ mùa đông binh sĩ, Bác đã gửi tới cụ Võ Liêm Sơn những dòng mộc mạc, chân tình “Thưa cụ, Uỷ ban Trung ương mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ chỉ quyên vải vóc hoặc chăn áo. Nhưng tôi không biết may, không có vải, mà áo cũng chỉ có hai bộ đã cũ. Vậy tôi xin quyên một tháng lương là 1000 đồng, nhờ Cụ mua giùm vật liệu và may giùm mấy chiếc chăn, áo cho chiến sĩ, gọi là tỏ chút lòng thành”. Quà tặng tuy không nhiều nhưng đó là sự tiết kiệm của Bác chứ không phải lấy từ công quỹ. Tình cảm bao la, sâu nặng, lòng yêu thương con người ở Bác luôn là như vậy.
      

Sức lay động cảm hoá ở Chủ tịch Hồ Chí Minh có hàm chứa những yếu tố khách quan, nhưng bên cạnh đó là yếu tố chủ quan được thể hiện trong văn hoá ửng xử. Trong phép ứng xử, với sự tinh tế, mẫn tiệp, Bác đã cố gắng xóa các khoảng cách, đã đạt tới đỉnh điểm của mối tương đồng, đẩy xa những tính khác biệt để đạt được mục tiêu phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể, có lợi cho sự nghiệp chung. Bởi thế, Bác đã quy tụ được các bậc yêu nước lão thành, những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống vinh hoa để phục vụ đất nước. Sau một buổi tiếp xúc, với cương vị chủ tịch Chính phủ, Bác đã mời được cụ Huỳnh Thúc Kháng ra đảm nhiệm việc nước. Bác đã thuyết phục cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình làm Trưởng ban thường vụ Quốc hội, mời cụ Phan Kế Toại, nguyên Khâm sai đại thần Bắc Kỳ, làm Phó Thủ tướng. Lường trước những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác đã thuyết phục một số nhà trí thức Việt kiều (như GS Trần Đại Nghĩa, GS Đặng Văn Ngữ…) về nước phục vụ cho Tổ quốc.
      Sức lay động, cảm hoá lòng người trong văn hoá ứng xử của Bác không chỉ dừng lại ở tình thương yêu và sự quan tâm mà Bác dành cho các đối tượng trong giao tiếp, mà nó có sức lay động thu phục nhân tâm của các đối tượng bằng sự thể hiện hành động “Lời nói đi đôi với việc làm”.

     Theo Bác, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều có mặt tốt, mặt xấu, thiện, ác… giống như năm ngón tay trên bàn tay, có ngón dài, ngón ngắn, như mấy mươi triệu con người Việt Nam có thể thế này, thế khác. Nhưng tấm lòng của Bác luôn độ lượng, bao dung, “Thương người như thể thương thân”. Vì vậy, Bác chủ trương tập hợp, đoàn kết toàn dân trong một mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc, nhằm thực hiện mục tiêu Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm phần tốt, phần thiện nhỏ nhất ở mỗi con người quy tụ lại sẽ thành sức mạnh to lớn của dân tộc. Lòng nhân từ, độ lượng là giá đỡ cho sự bao dung. Lòng nhân từ, độ lượng hoàn toàn xa lạ với thói tự kiêu, tự mãn, tự đại, tầm nhìn thiển cận, bệnh hẹp hòi. Người chỉ rõ “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng tràn đầy, vì độ lượng của nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn cũng như cái chén, cái đĩa cạn”.
       Bác rất tin tưởng quý trọng nhân dân nên trong giao tiếp ứng xử với họ, Bác luôn nhắc nhở “Đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo, khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trân trọng nhân cách của người ta”. Riêng đối với những người lầm đường, lạc lối hay đã từng cộng tác với bên kia trận tuyến, Bác yêu cầu “Không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá khoan dung”.

       Sự khoan dung, độ lượng của Bác bắt nguồn từ bản sắc văn hoá, truyền thống đại nghĩa của dân tộc nên đã cảm hoá đối với cả khối óc và trái tim những người đứng bên kia trận tuyến. Trong cuộc đấu trí đó, Bác không có kẻ thù riêng nào, buộc tất cả các đối thủ phải kính nể, cảm phục một con người mà họ không thể khuất phục và cuối cùng họ đành phải chấp nhận đuối lý, thua cuộc bởi sự cao thượng, nhân ái, khoan dung, độ lượng của Bác. Tướng P. Valuy đã nhiều lần tiếp xúc với Hồ Chí Minh trong năm 1946 có nhận xét Bác là người “Hết sức nhã nhặn, hết sức lịch sự và sự quyến rũ”. Được thuyết phục bởi phong cách văn hoá ứng xử của Bác, ông đã trở thành người đối thoại rất tâm đắc với Bác, và giữa hai người đã có một “tình hữu nghị keo sơn”.

      Giá trị văn hoá ứng xử của Bác luôn sống mãi với thời gian, là hành trang quý để Đảng và Nhà nước ta vận dụng trong chủ trương mở cửa hội nhập, “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước”. Để cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì  trước hết phải  thể hiện ở sự phê bình và tự phê bình thì việc xây dựng văn hoá ứng xử mới trở thành hiện thực trong cuộc sống và xã hội. Từ đó chúng ta có nhiều biện pháp ngăn ngừa, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, đang tự chuyển hóa, tự chuyển biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và một số người.

 

                                                                         LÊ XUÂN

                                                            (Hội Nhà văn TP Cần Thơ)